Sân trong giữa điện Hoà Khiêm và điện Lương Khiêm, nằm giữa hai điện là nhà hát Minh Khiêm Đường
Công trình trắc trở của ông vua có số phận nhiều trắc trở
Tự Đức (1829-1883) là vị vua thứ tư của triều Nguyễn. So với các bậc tiên đế là vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, thì vua Tự Đức có một số phận nhiều trắc trở. Thời gian trị vì của ông cũng là thời gian chính trị - xã hội đất nước có nhiều biến loạn. Ông phải đối phó với việc tranh giành ngôi báu do chính người anh trai của mình là Hồng Bảo và cháu ruột là Ưng Đạo tổ chức. Bên cạnh đó, những chính sách đối ngoại hẹp hòi, bế quan toả cảng của triều đình khiến vấn đề ngoại giao rất bất lợi. Thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng vào năm 1858, mở đầu cuộc chiến xâm lược Đại Nam; rồi sau đó đánh chiếm 3 tỉnh miền đông Nam kỳ (1862). Ở góc độ cá nhân, nhà vua bị di chứng bệnh thủa nhỏ nên không có khả năng sinh con để nối dõi... Có thể nói vua Tự Đức liên tiếp thất bại, gặp trắc trở trong cả việc nước lẫn việc nhà. Như để làm dịu bớt nỗi khổ đau chồng chất ấy, nhà vua ra lệnh xây lăng cho chính mình ở tuổi 35 (năm 1864) như một hoàng cung thứ hai, để làm nơi giải trí, tiêu khiển khi còn sống và là “ngôi nhà lâu dài” của nhà vua khi sang thế giới bên kia.
Sau khi các quan chuyên về phong thuỷ trong triều khảo sát, chọn lựa thế đất, cuối cùng lăng vua Tự Đức được chọn đặt ở làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ); nay thuộc thôn Thượng Ba, phường Thuỷ Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Vị trí lăng cách Kinh thành chưa tới 10km. “Dự án” được vua Tự Đức chuẩn định vào tháng 10 năm 1864 với những tâm nguyện và sở thích của riêng mình.
Điện Hoà Khiêm, nơi làm việc của vua, nay là điện thờ vua và hoàng hậu
Khiêm Cung Môn - cổng chính vào khu cung điện
Điện Lương Khiêm phía sau điện Hoà Khiêm, nơi nghỉ ngơi của vua, nay là điện thờ Thái hậu Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, vợ vua Thiệu Trị
Bi đình (nhà bia) lăng vua Tự Đức nhìn từ bái đình phía trước
Toàn cảnh hồ Lưu Khiêm nhìn từ Khiêm Cung Môn
Tuy nhiên, quá trình xây lăng lại không hề suôn sẻ. Ban đầu khi khởi dựng lăng, vua Tự Đức đặt tên lăng là Vạn Niên Cơ, với hàm ý lâu dài, trường tồn (cơ đồ vạn năm). Sau khi khởi công khoảng 2 năm, tức năm 1866, một sự kiện ngoài ý muốn của nhà vua đã diễn ra. Khoảng 3.000 lính và thợ thi công, dân phu ở công trình Vạn Niên Cơ đã nổi loạn vì lao động khổ sở, bị bức hiếp đánh đập tàn nhẫn. Dân gian còn lưu truyền câu ca:
Vạn niên là vạn niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân
Quân nổi loạn đã đánh vào tận điện Thái Hoà trong Hoàng thành với ý đồ lật đổ ngai vàng, song thất bại trước lực lượng cấm quân bảo vệ Hoàng thành và Kinh thành. Dân gian gọi cuộc khởi nghĩa này là “Loạn chày vôi” (chày vôi là một loại dụng cụ lao động trong xây dựng được sử dụng làm vũ khí trong cuộc chiến chống triều đình). Cuộc khởi nghĩa thất bại, song đối với vua Tự Đức, đó cũng là một thất bại trong việc trị quốc. Điều đó làm uy tín của nhà vua tổn thương không nhỏ. Và điều đó cũng đã ít nhiều tác động đến suy nghĩ của vua Tự Đức. Nhà vua đã viết bài biểu trần tình để tạ tội và đổi tên Vạn Niên Cơ thành Khiêm Cung - với chữ “Khiêm” nghĩa là khiêm tốn. Khiêm Cung được hoàn thành năm 1873, và 10 năm sau đó, nhà vua mới qua đời (1883). Sau khi vua băng hà, Khiêm Cung được đổi tên thành Khiêm Lăng.
.jpg)
Bi đình (nhà bia) và trụ biểu hai bên
Bửu thành – nơi đặt mộ vua
Bình phong trang trí hình chữ “Thọ” đặt trước lối vào mộ
Bình phong trước mộ Lệ Thiên Anh Hoàng hậu có đồ án trang trí hình chim phượng
Bài thơ kiến trúc và thiên nhiên
Tự Đức là ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn và rất uyên thâm Nho học, giỏi thơ văn. Nhà vua đã để lại hàng ngàn bài thơ cả chữ Hán và chữ Nôm. Thơ văn của vua phản ánh một con người ái quốc, nhân hậu và hâm mộ nghệ thuật. Năng khiếu thẩm mỹ của vua cũng thể hiện rất rõ qua phong cách kiến trúc lăng mộ của chính mình.
Quần thể kiến trúc Khiêm Lăng có tới gần 50 công trình lớn nhỏ khác nhau hoà quyện cùng thiên nhiên và có bố cục rất tự do, đầy khoáng đạt và tinh tế, lãng mạn. Các công trình thuộc cả hai khu vực cung điện và lăng mộ đều có chữ “Khiêm” trong tên gọi. Các công trình này nằm rải rác trong “la thành” có diện tích khoảng 12 ha, với thế đất cao thấp khác nhau. Lối đi chính bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi uốn lượn quanh co bên hồ Lưu Khiêm, đi bên cửa Khiêm Cung, tới khu lăng mộ, thay vì một trục thần đạo trong bố cục lăng mộ truyền thống. Các nhà kiến trúc thời bấy giờ đã lợi dụng nguồn nước tự nhiên của một con suối nhỏ để nới rộng, đào sâu, nắn thế đất để tạo nên hồ Lưu Khiêm và đắp thành đảo Tịnh Khiêm trên hồ. Ở ven hồ có các công trình đầy lãng mạn là Dũ Khiêm Tạ và Xung Khiêm Tạ là nơi nhà vua ngắm hoa, làm thơ, đọc sách. Có ba cây cầu tên là Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắc qua hồ dẫn đến đồi thông.
Từ Khiêm Cung Môn đối diện với hồ Lưu Khiêm qua trục đường chính, là bắt đầu một hệ thống cung điện gồm vài chục toà nhà với nhiều công năng khác nhau phục vụ cho nhà vua khi còn sống. Tại đây hiện còn lưu giữ được nhiều đồ ngự dụng của nhà vua và các tác phẩm nghệ thuật đương thời. Bắt đầu từ điện đầu tiên là điện Hoà Khiêm, là nơi vua làm việc (nay là nơi thờ cúng bài vị của vua và hoàng hậu); hai bên tả hữu có Pháp Khiêm Vu và Lễ Khiêm Vu dành cho quan văn võ theo hầu. Tiếp theo là điện Lương Khiêm, là nơi vua nghỉ ngơi (nay là điện thờ Hoàng Thái hậu Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức). Bên phải điện Lương Khiêm có Ôn Khiêm Đường, là nơi cất đồ ngự dụng. Bên trái có nhà hát Minh Khiêm Đường. Đây là một công trình rất đặc sắc, là một trong những nhà hát cổ nhất Việt Nam còn tồn tại. Điều đặc sắc bởi chính một công trình nhà hát lại tồn tại ở khu lăng tẩm, là một điều độc đáo xưa nay trên thế giới.
.jpg)
Nội thất điện Hoà Khiêm
Nội thất điện Lương Khiêm
Nội thất Minh Khiêm Đường
Nội thất Minh Khiêm Đường
Từ Ôn Khiêm Đường có một hành lang dẫn ra Trì Khiêm Viện và Y Khiêm Viện là nơi ở các cung phi theo hầu vua, khi cả vua còn sống và khi đã chết. Rất tiếc, cụm kiến trúc này hiện giờ đã bị tàn phá bởi thời gian, chỉ còn là phế tích...
Các kiến trúc ở khu vực cung điện đều được làm bằng gỗ, còn những hạng mục ở khu lăng mộ lại được xây bằng gạch đá. Qua sân Bi Đình với hàng văn võ voi ngựa chầu hai bên là tới Bi Đình (nhà bia) rất lớn với hai trụ biểu. Đáng nói nhất ở đây là tấm bia đá Thanh cao 5m, nặng tới 20 tấn - là tấm bia lớn nhất Việt Nam. Trên tấm bia này khắc bài “Khiêm Cung Ký” do chính vua Tự Đức soạn vào năm 1871. Nhà vua không có con nối dõi nên đã tự tay soạn văn bia cho mình thay vì vua con soạn bia cho vua cha như những đời trước. “Khiêm Cung Ký” là một bài văn dài, có tới 4.935 chữ, là lời tự sự của vua Tự Đức về cuộc đời, vương nghiệp, cả những nỗi buồn đau, rủi ro, bệnh tật...; kể công trạng và nhận tội của mình trước lịch sử. Đáng lưu ý là Khiêm Cung hoàn thành năm 1873 song năm 1875 bài văn bia này mới được khắc và dựng bia ở Bi Đình.
Mộ vua nằm trong Bửu thành với một tấm bình phong trước lối vào có chạm chữ “Thọ”. Kiến trúc mộ có quy mô nhỏ bé và phong cách giản dị, được xây bằng đá, ẩn mình giữa rừng thông.
Cách không xa mộ vua Tự Đức là “Khiêm Thọ Lăng” - nơi an nghỉ của Lệ Thiên Anh Hoàng hậu, vợ chính vua Tự Đức với kiến trúc tương tự, và khu lăng tẩm của vua Kiến Phúc (con nuôi vua Tự Đức)
Nhìn chung, các kiến trúc trong lăng Tự Đức có nhiều đường nét khác nhau, phong phú trong nghệ thuật. So với những lăng tẩm của các vị vua trước và kể cả về sau, thì lăng Tự Đức thể hiện một sự tự do, bay bổng, phóng khoáng. Ở đó, kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện vào nhau, tôn vinh lẫn nhau. Việc phá vỡ bố cục đối xứng cổ điển làm yếu tố then chốt tạo nên giá trị ấy. Là khu lăng mộ song người ta không cảm thấy một sự sợ hãi, uy nghiêm mà lại thấy thơ mộng, hiền hoà, yên bình như trong công viên, vườn hoa. Điều đó cũng phản ánh đúng sự khởi thủy là một cung điện dành cho người đang sống.
Không gian kiến trúc ở đây luôn đem lại mới lạ cho cảm xúc thẩm mỹ, và phản ánh rõ nét tâm hồn lãng mạn của một ông vua thi sỹ. Lăng Tự Đức là một bức tranh sơn thuỷ hữu tình, là một bài thơ kiến trúc và thiên nhiên.
.jpg)
Mộ vua Tự Đức nằm giữa rừng thông
Khiêm Thọ Lăng - mộ phần của Lệ Thiên Anh Hoàng hậu - vợ chính vua Tự Đức (1828-1902)
Mộ Lệ Thiên Anh Hoàng hậu có cấu trúc tương tự như mộ vua Tự Đức
Dũ Khiêm Tạ và Xung Khiêm Tạ bên hồ Lưu Khiêm
Trong số 13 đời vua triều Nguyễn, Tự Đức là người uyên thâm về nền học vấn Đông phương, nhất là nho học. Ông giỏi cả về sử học, triết học, văn học nghệ thuật và rất yêu thơ. Vua Tự Đức chọn nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn. Xung quanh lăng mộ là đồi thông xanh mát và những con sông, hồ uốn lượn hai bên
THEO KIẾN TRÚC & ĐỜI SỐNG SỐ 220